Để trẻ em không bị bạo hành
Gần đây có nhiều vụ xâm hại trẻ em đều được phát hiện muộn. Nhiều vụ xâm hại trẻ lại do chính người thân của trẻ gây ra. Thực tế trên đòi hỏi các cơ quan chức năng tiếp tục tìm hiểu làm rõ nguyên nhân, đề xuất các giải pháp có hiệu quả để ngăn chặn, tiến tới xóa bỏ nguyên nhân của tình trạng này.
Theo bà Trần Thị Thanh Thanh, nguyên Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam, Chủ tịch Hội Bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam, thì pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em của chúng ta khá đầy đủ, nhưng việc thực hiện chưa nghiêm, bộ máy quản lý hoạt động chưa hiệu quả. Đơn cử, việc cấp giấy phép và giám sát hoạt động của các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập còn bị buông lỏng, dẫn tới việc nhiều người không có chuyên môn nhưng vẫn được làm công việc chăm sóc, giáo dục trẻ, nhiều cơ sở trông giữ trẻ không có giấy phép nhưng vẫn ngang nhiên hoạt động. Về phía gia đình, một số người làm cha, làm mẹ thiếu hiểu biết pháp luật, thiếu kiến thức về sự phát triển thể chất, tâm sinh lý lứa tuổi, còn có quan niệm, phương pháp sai lầm trong việc chăm sóc, giáo dục con trẻ.
Để bảo vệ trẻ em khỏi các hình thức bạo hành, theo bà Trần Thị Thanh Thanh, cần có những biện pháp tầm vĩ mô. Trước tiên là phải sửa Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, dựa trên nguyên tắc phòng ngừa là chính (vì luật hiện hành mới chỉ quan tâm việc giải quyết hậu quả) và quy định rõ ràng, có chế tài cụ thể đối với từng hành vi xâm hại, bạo lực trẻ em. Phải xây dựng được một bộ máy quản lý nhà nước đủ mạnh, đội ngũ công chức nhiệt huyết và có trách nhiệm. Chính phủ cũng phải có chính sách để các tổ chức xã hội tham gia và có cơ chế cho các tổ chức này hoạt động, có đội ngũ hội viên từ cộng đồng, giám sát cùng Nhà nước bảo vệ trẻ em.
Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em (Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội) Đặng Hoa Nam cho rằng, nguyên nhân chính của các vụ xâm hại trẻ em bắt nguồn từ ý thức về quyền và trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái.
Nhiều cha mẹ vẫn có quan niệm "thương cho roi cho vọt", tự cho mình quyền dạy dỗ con cái bằng bạo lực. Bên cạnh đó, còn có nguyên nhân là hệ thống tổ chức bảo vệ trẻ em của nước ta hiện nay còn yếu, cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em trên địa bàn vừa thiếu, vừa không được đào tạo bài bản và chưa được hưởng các chế độ, chính sách tương xứng với công việc được giao. Do đó, công tác dự phòng, tuyên truyền giáo dục, phát hiện và can thiệp sớm chưa được địa phương thực hiện tốt. Đơn cử, trường hợp cháu Đỗ Doãn Lộc ở Bắc Ninh nằm trong nhóm đối tượng có nguy cơ cao bị xâm hại vì có mẹ ở tù, bố mới ra tù, cần được chính quyền, các ban, ngành quan tâm, theo dõi. Thế nhưng, cháu đã bị cha ruột và mẹ kế đánh đập nhiều lần trong thời gian dài mà chính quyền không biết, còn những người hàng xóm biết nhưng lại không dám báo hoặc không biết báo cho ai.
Nhiều nghiên cứu tâm lý chỉ ra rằng, sự bạo hành của cha mẹ, người chăm sóc đối với trẻ nhỏ có ảnh hưởng xấu không chỉ trong thời gian ngắn mà nó để lại di chứng suốt cuộc đời một con người.
Nhiều trẻ bị sang chấn tâm lý nặng nề, ảnh hưởng xấu về sức khỏe, tinh thần, khả năng học tập, khả năng giao tiếp và sự phát triển bình thường của trẻ. Để trẻ em không bị bạo hành ngay trong chính gia đình, ngôi trường của mình, các bậc cha mẹ, người chăm sóc cần được giáo dục kiến thức nuôi dạy trẻ, giáo dục về trách nhiệm và tình yêu thương con trẻ. Người bạo hành trẻ dù là cha mẹ, người ruột thịt cũng phải chịu trách nhiệm, chịu hình phạt về hành vi xâm hại trẻ em trước pháp luật. Ngoài hình phạt, họ còn phải chịu sự giám sát của các tổ chức xã hội, cộng đồng, phải học lớp giáo dục trẻ em.
Cùng với việc xử lý nghiêm khắc người có hành vi xâm hại trẻ em, để có thể giải quyết được tận gốc vấn đề, một trong những giải pháp đặc biệt quan trọng là phải thực hiện có hiệu quả việc bảo đảm an sinh xã hội để giảm bớt gánh nặng mưu sinh, từ đó, cha mẹ có cơ hội chăm sóc con cái nhiều hơn. Hình thành các dịch vụ xã hội bảo vệ trẻ em có tính hệ thống và chuyên nghiệp theo cả hai hình thức công ích và xã hội hóa