Đặc điểm của tội phạm sử dụng công nghệ cao
Căn cứ vào đặc điểm, phương thức thực hiện mà các loại tội phạm công nghệ cao này có thể được chia làm 2 nhóm như sau:
Thứ nhất, nhóm tội phạm sử dụng công nghệ thông tin theo nghĩa hẹp: là các hành vi phạm tội sử dụng máy tính và mạng máy tính với mục đích xâm phạm đến an toàn của hệ thống máy tính và quy trình lưu trữ dữ liệu của hệ thống đó. Đây là những tội phạm gây tổn hại tính bảo mật, tính toàn vẹn và tính khả dụng của hệ thống máy tính, có quan hệ trực tiếp đến máy tính, mạng máy tính, làm ảnh hưởng và gây thiệt hại cho người sử dụng bao gồm:
- Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật;
- Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử;
- Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
- Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông
- Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác
Cơ sở pháp lý: Điều 285, 286, 287, 288, 289 BLHS 2015.
Thứ hai, nhóm tội phạm công nghệ thông tin theo nghĩa rộng: là các hành vi phạm tội sử dụng máy tính hoặc các phương pháp khác có liên quan đến máy tính, mạng máy tính. Tội phạm thông thường thực hiện hành vi phạm tội với sự trợ giúp của công cụ máy tính mà phổ biến hiện nay như các hành vi lừa đảo, trốn lậu cước viễn thông, mạo danh.. bao gồm:
- Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản;
- Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng;
- Tội sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh;
- Tội cố ý gây nhiễu có hại
Cơ sở pháp lý: Điều 290, 291, 293, 294 BLHS 2015.